I. Vi khuẩn HP là gì?
Theo như định nghĩa của y học thì Hp là tên viết tắt của vi khuẩn Helicobacter pylori. Ngoài ra, nó cũng thường được viết tắt theo một cách khác mà mọi người có thể thấy đó là H.pylori. Vi khuẩn Hp có dạng xoắn và được phát hiện vào năm 1982 bởi hai nhà nghiên cứu là Robin Warren và Barry Marshall.
Môi trường sống được cho là lý tưởng nhất đối với vi khuẩn Hp chính là niêm mạc của dạ dày. Thực chất nó là một vi khuẩn kị khí, vì vậy nó chỉ tồn tại được ở trong môi trường thiếu oxy, đồng thời nó còn sản sinh ra catalase – một loại chất có khả năng phá hủy thành niêm mạc của dạ dày. Trên thực tế không phải người bệnh nào bị viêm dạ dày cũng bởi nguyên nhân từ sự tấn công của vi khuẩn Hp, tuy nhiên tỷ lệ bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn này thường được cho là phổ biến hơn cả. Ở Việt Nam tỷ lệ nhiễm HP khoảng 70-80% tùy theo từng nghiên cứu.
Các nghiên cứu cho thấy rằng nhiễm vi khuẩn Hp là nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính. Mặc dù vi khuẩn Hp rất dễ lây nhiễm qua nhiều con đường khác nhau, nhưng nếu biết cách phòng tránh, bạn hoàn toàn có thể tránh xa được loại vi khuẩn này.
Cuộc sống tập trung đông người, điều kiện vệ sinh, chăm sóc y tế, phòng dịch kém với nguồn nước bị ô nhiễm là những nguyên nhân gây nhiễm H.pylori.
II. Các con đường lây nhiễm chính
1. Lây nhiễm từ thành viên trong gia đình
Nếu vợ hoặc chồng có Hp dương tính thì khả năng vị hôn phu của mình có Hp dương tính là 68%, còn con cái có nguy cơ bị lây nhiễm Hp tới 40%, đó là thống kê của các nước phương Tây, ở Việt Nam, tỷ lệ đó cao hơn rất nhiều do tập tục ăn uống chung trong các bát, đĩa đựng thức ăn, mẹ nuôi con thường đút cho con ăn sau khi nhai cơm cho con, sau khi đưa qua miệng người mẹ hoặc người lớn trong gia đình…
2. Nơi tập trung đông người, gia đình đông con
Rõ ràng là tỷ lệ nhiễm khuẩn Hp ở Việt Nam, theo một số nguồn tin không chính thức, lên tới 80% thì việc sống tập trung, sinh hoạt ăn uống không hợp vệ sinh làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm, hầu hết mọi người nhiễm Hp đều chưa được chẩn đoán và có biện pháp điều trị và dự phòng đúng cách.
3. Vệ sinh, y tế phòng dịch kém
Đây là nguyên nhân khiến vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào bữa ăn hàng ngày của chúng ta. Nếu việc vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn uống không đảm bảo, bạn có nguy cơ bị lây nhiễm vi khuẩn Hp rất cao. Ngoài ra, công tác y tế dự phòng không đảm bảo sẽ giúp vi khuẩn lưu hành tự do trong cộng đồng mà không được kiểm soát. Trước tiên là lây nhiễm trong gia đình, khu vực sinh sống, và sau đó là toàn cộng đồng.
4. Nhiễm vi khuẩn Hp khi làm thủ thuật nội soi dạ dày phát hiện như thế nào
Có nhiều phương pháp để xét nghiệm nhiễm khuẩn HP dạ dày. Mỗi phương pháp có ưu nhược điểm khác nhau và được bác sĩ lựa chọn tùy thuộc vào cơ sở vật chất ở bệnh viện, phòng khám cũng như theo nhu cầu, tình trạng của người bệnh.
Nhiễm HP dạ dày là một trong những bệnh Tiêu hóa phổ biến nhất. Tỷ lệ người nhiễm HP dạ dày ở Việt Nam và trên thế giới rất cao, ước tính khoảng 70% tại Việt Nam và 50% trên thế giới. Nhiễm HP dạ dày là góp phần chính gây ra các bệnh viêm loét dạ dày tá tràng, tăng nguy cơ ung thư dạ dày.
Để xác định người bệnh có bị nhiễm HP dạ dày hay không thì cần tiến hành các xét nghiệm. Sau đây là 4 phương pháp xét nghiệm HP dạ dày phổ biến được áp dụng tại các cơ sở Y tế. Mỗi phương pháp có những ưu nhược điểm khác nhau, mời bạn đọc tham khảo.
Nội soi can thiệp làm Clo-test chẩn đoán nhiễm HP là kỹ thuật lấy một mảnh niêm mạc dạ dày qua nội soi dạ dày, sau đó làm Test với hóa chất để xác định tình trạng nhiễm HP của mô dạ dày.
Chia sẻ Facebook
Khi nào cần thực hiện
Chống chỉ định
Các bước tiến hành
Ưu điểm
Nhược điểm
Xét nghiệm Urea qua hơi thở là một test đơn giản cho phép xử lý hơi thở của bệnh nhân để phát hiện nhiễm khuẩn HP.
Đây là xét nghiệm được xem như “tiêu chuẩn vàng” cho chẩn đoán nhiễm khuẩn HP trong phòng thí nghiệm.
Khi nào cần thực hiện
Bệnh nhân cần chuẩn bị
Các bước tiến hành
Ưu điểm
Nhược điểm
Xét nghiệm phân được sử dụng để xác định xem có vi khuẩn Hp trong đường tiêu hóa hay không bằng cách tìm kháng nguyên của vi khuẩn Hp lẫn trong phân. Kháng nguyên là các phần tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, từ đó sản xuất ra kháng thể chống lại sự nhiễm khuẩn.
Khi nào thì thực hiện
Chuẩn bị
Thời gian nhận kết quả: Xét nghiệm tìm Hp trong phân thường có kết quả sau 1 - 4 ngày.
Ưu điểm
Nhược điểm
Phương pháp xét nghiệm này sử dụng mẫu máu lấy từ tĩnh mạch người bệnh sau đó quay ly tâm tách huyết tương. Nếu xét nghiệm thấy trong huyết tương tồn tại kháng thể IgG và IgM thì xét nghiệm dương tính - chứng tỏ cơ thể đã bị nhiễm vi khuẩn HP.
Đây cũng không phải loại xét nghiệm được ưu tiên thực hiện, chỉ những cơ sở không có phương pháp xét nghiệm nào khác mới thực hiện xét nghiệm này. Lý do là vì vi khuẩn HP có thể tồn tại ở một số khu vực khác dạ dày như khoang miệng, xoang, đường ruột nhưng hoàn toàn không gây bệnh tại dạ dày. Tuy nhiên, xét nghiệm máu vẫn dương tính gây nhầm lẫn cho việc điều trị.
Ngoài ra, Vì kháng thể trong máu giảm rất chậm, do đó sau điều trị diệt hết HP, nồng độ kháng thể vẫn tiếp tục còn lại trong máu của người bệnh sau một thời gian dài, bởi vậy phương pháp này không thể xác định hiện tại bệnh nhân còn nhiễm hay đã hết nhiễm HP.
Trên đây là 4 phương pháp xét nghiệm vi khuẩn HP dạ dày phổ biến nhất. Nếu gặp các triệu chứng của tình trạng nhiễm HP dạ dày, bạn đọc nên thăm khám với bác sĩ chuyên khoa Tiêu hóa để được chỉ định phương pháp xét nghiệm phù hợp, tiến hành điều trị theo phác đồ phù hợp tránh những biến chứng ảnh hưởng sức khỏe về sau.
III. Cách chống lây nhiễm vi khuẩn Hp
Trên đây là một số nguyên nhân gây nhiễm vi khuẩn Hp bạn sẽ thường xuyên gặp phải. Để phòng ngừa nhiễm vi khuẩn Hp, bạn cần chủ động tiến hành các biện pháp sau đây:
Vệ sinh, phòng dịch nơi sinh sống: vệ sinh nguồn nước, thực phẩm, nơi ở.
Rửa tay sạch sẽ khi ăn uống.
Kiểm tra vi khuẩn Hp khi có các dấu hiệu bệnh dạ dày và tuân thủ điều trị vi khuẩn HP theo chỉ định của bác sỹ chuyên khoa Tiêu hóa, tránh lây lan trong gia đình và tránh kháng thuốc.
Khi trong nhà có người bị nhiễm Hp thì nên sử dụng bát đũa riêng, vệ sinh bát đũa sạch sẽ, tránh lây nhiễm.